Truyền thuyết là gì? Các công bố khoa học về Truyền thuyết
Truyền thuyết là một loại câu chuyện, câu chuyện được truyền miệng từ thời xa xưa, thường có tính hụt của sự thật lịch sử, nhưng thường bị biến tấu và thêm vào ...
Truyền thuyết là một loại câu chuyện, câu chuyện được truyền miệng từ thời xa xưa, thường có tính hụt của sự thật lịch sử, nhưng thường bị biến tấu và thêm vào những yếu tố thần thoại, huyền bí hoặc siêu nhiên. Truyền thuyết thường được sử dụng để giải thích nguồn gốc của một sự việc, một hiện tượng, một vùng đất hoặc một nhân vật nổi tiếng.
Truyền thuyết là một loại câu chuyện truyền đạt thông qua môi trường miệng của cộng đồng dân gian từ thời xa xưa, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng thường thuật lại những câu chuyện về nguồn gốc và lịch sử, nhưng mang tính chất huyền bí, thần thoại, hoặc siêu nhiên. Truyền thuyết thường không có nguồn gốc rõ ràng và được xem là một phần không thể thiếu trong văn hóa dân gian và tín ngưỡng tôn giáo của một cộng đồng.
Truyền thuyết đa dạng và có thể liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc của loài người, câu chuyện về anh hùng và anh hùng, truyện cổ tích, truyền thuyết về thần thoại và các bốn yếu tố cơ bản (đất, nước, lửa, và không khí), truyền thuyết về các vùng đất và quốc gia cụ thể, hay thậm chí truyền thuyết về các vị thần và yêu quái.
Một số truyền thuyết nổi tiếng trong văn hóa thế giới bao gồm truyền thuyết Hy Lạp về Zeus và các vị thần Olímpia, truyền thuyết Norse về Thor và Odin, truyền thuyết Trung Quốc về Ngưu Lang và Chức Nữ, truyền thuyết Ấn Độ về Rama và Sita, truyền thuyết Ăn Đủ Đầy của người Inca, và nhiều truyền thuyết khác. Truyền thuyết thường có một mục đích sử dụng giảng dạy, giải trí và truyền tải những giá trị, bài học và triết lý của một cộng đồng.
Truyền thuyết là một phương thức truyền đạt văn hóa và kiến thức thông qua các câu chuyện truyền miệng từ thời xa xưa. Chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và thường không được ghi lại trong ngữ liệu văn bản. Truyền thuyết thường liên quan đến nguồn gốc của một cộng đồng, lịch sử, văn hóa và tôn giáo.
Một số đặc điểm quan trọng của truyền thuyết bao gồm:
1. Thời gian truyền thuyết: Truyền thuyết thường xuyên xuất hiện trong quá khứ xa xôi và có thể đã trải qua nhiều sự biến đổi và biến dạng trong quá trình được truyền đi. Vì không có tài liệu để xác nhận chính xác thông tin, truyền thuyết thường chứa những giả thuyết và yếu tố hư cấu.
2. Nhân vật và sự kiện huyền thoại: Truyền thuyết thường chứa những nhân vật và sự kiện có tính chất siêu nhiên hoặc thần thoại. Các vị thần, anh hùng, yêu quái và những người có sức mạnh phi thường thường xuất hiện trong truyền thuyết.
3. Mục đích và chức năng: Truyền thuyết thường có mục đích giải thích, giáo dục và giữ vững các giá trị, quy tắc và niềm tin của một cộng đồng. Chúng cung cấp cách nhìn và giải thích thế giới xung quanh, giữ cho văn hóa và truyền thống của cộng đồng sống mãi qua thời gian.
4. Sự lan truyền: Truyền thuyết được truyền miệng từ người này sang người khác qua các hoạt động giao tiếp như nói chuyện, hòa nhạc, ca hát hay diễn kịch. Chúng có thể được truyền qua các bài hát, thơ ca, câu đố, lễ hội và các hình thức truyền thông khác.
5. Tính chất đa dạng: Truyền thuyết có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, bao gồm truyện cổ tích, truyện dân gian, ca dao, di tích suối nguồn, câu đố và nhiều hình thức khác. Each culture has its own set of myths and legends, reflecting their particular beliefs, customs, and history.
Truyền thuyết có sức mạnh lan truyền và ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và ý thức của một cộng đồng. Chúng cung cấp một cách để giữ vững và truyền đạt các giá trị và truyền thống của một cộng đồng từ thế hệ này sang thế hệ sau.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "truyền thuyết":
Một mạng lưới não cơ bản đã được đề xuất là nền tảng cho một số quá trình khác nhau, bao gồm ghi nhớ, khả năng dự đoán, điều hướng và lý thuyết về tâm trí [Buckner, R. L., & Carroll, D. C. Tự chiếu và não bộ. Xu hướng trong Khoa học Nhận thức, 11, 49–57, 2007]. Mạng lưới này – vùng vỏ trước trán giữa, vùng thái dương giữa, và các vùng thái dương bên và đỉnh giữa – tương tự như mạng lưới quan sát trong quá trình chế độ mặc định và đã được cho là đại diện cho sự tự chiếu [Buckner, R. L., & Carroll, D. C. Tự chiếu và não bộ. Xu hướng trong Khoa học Nhận thức, 11, 49–57, 2007] hoặc xây dựng cảnh [Hassabis, D., & Maguire, E. A. Giải cấu trúc trí nhớ theo từng sự kiện bằng cách xây dựng. Xu hướng trong Khoa học Nhận thức, 11, 299–306, 2007]. Đến nay, không có bằng chứng hệ thống và định lượng nào được đưa ra cho mạng lưới chung này. Sử dụng phương pháp đánh giá khả năng kích hoạt (ALE), chúng tôi đã tiến hành bốn phân tích tổng hợp định lượng riêng biệt về các nghiên cứu hình ảnh thần kinh về: (a) trí nhớ tự truyện, (b) điều hướng, (c) lý thuyết về tâm trí, và (d) chế độ mặc định. Phân tích kết hợp giữa các lĩnh vực này cho thấy mức độ tương ứng cao. Chúng tôi đã so sánh những phát hiện này với một phân tích ALE riêng biệt của các nghiên cứu về khả năng dự đoán và phát hiện thêm sự tương ứng. Trên tất cả các lĩnh vực, và nhất quán với mạng lưới được đề xuất, sự tương ứng được tìm thấy trong thùy thái dương giữa, vùng tiền thùy, hồi cingulate sau, vỏ não hồi sau và giao điểm thùy thái dương. Thêm vào đó, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng mạng lưới cốt lõi mở rộng đến các vỏ não trán bên và vỏ não thị giác. Trí nhớ tự truyện, khả năng dự đoán, lý thuyết về tâm trí và chế độ mặc định đều cho thấy sự tham gia đáng tin cậy hơn của vỏ não trán giữa và các vỏ não thái dương bên. Trí nhớ tự truyện và lý thuyết về tâm trí, trước đây được nghiên cứu như các lĩnh vực riêng biệt, đã thể hiện sự chồng chéo chức năng rộng rãi. Những phát hiện này đại diện cho bằng chứng định lượng cho một mạng lưới cốt lõi nằm dưới nhiều lĩnh vực nhận thức khác nhau.
Khách hàng không hài lòng có tham gia vào hoạt động truyền miệng nhiều hơn hay ít hơn so với khách hàng hài lòng? Có cả lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ cho cả hai khả năng này. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, các tác giả đã phát triển một mô hình dựa trên tiện ích về mối quan hệ giữa sự hài lòng của khách hàng và truyền miệng. Hình thức chức năng được giả định - hình chữ U không đối xứng - không thể bị bác bỏ dựa trên dữ liệu từ Hoa Kỳ và Thụy Điển. Hơn nữa, các kết quả ước lượng dựa trên hai mẫu cũng cho thấy sự tương đồng, gợi ý rằng mối quan hệ được đề xuất là có thể tổng quát. Các phát hiện cũng chỉ ra rằng mặc dù khách hàng không hài lòng thực sự tham gia vào hoạt động truyền miệng nhiều hơn so với những khách hàng hài lòng, nhưng những giả định phổ biến liên quan đến kích thước của sự khác biệt này dường như là phóng đại.
Từ các nghiên cứu thực nghiệm trong việc xử lý dữ liệu phản xạ địa chấn, các nhà địa vật lý nhận thấy rằng tín hiệu địa chấn biến đổi về biên độ, hình dạng, tần số và pha, theo thời gian truyền. Để nâng cao độ phân giải của phương pháp phản xạ địa chấn, chúng ta cần điều tra những biến đổi này một cách chi tiết hơn. Chúng tôi trình bày các kết quả định lượng từ các nghiên cứu lý thuyết về sự lan truyền của các sóng phẳng cho sự cố định bình thường, qua các môi trường đa lớp hoàn toàn đàn hồi. Như các hình dạng sóng nhỏ, chúng tôi sử dụng sóng cosine pha không được điều chế bởi một bao bọc Gaussian và các sóng phức tương ứng. Một tập hợp hữu hạn của các sóng như vậy, cho một mẫu phù hợp của miền tần số, có thể được coi là các sóng cơ bản cho một sự mở rộng Gabor của bất kỳ tín hiệu hoặc dấu hiệu nào trong miền hai chiều (2-D) (thời gian và tần số). Chúng tôi có thể tính toán sự lan truyền sóng bằng cách sử dụng các hàm phức và do đó thu được các kết quả định lượng bao gồm năng lượng và pha của các tín hiệu đang lan truyền. Những kết quả này xuất hiện như các hàm phức 2-D của thời gian và tần số, tức là, như “quang phổ tần số tức thời.” Việc lựa chọn một tỷ lệ lấy mẫu không đổi trên thang đo logarithmic trong miền tần số dẫn đến một phương pháp lấy mẫu thích hợp cho việc bảo tồn pha của các tín hiệu hoặc dấu hiệu phức. Vì mục đích này, chúng tôi đã phát triển một sự mở rộng Gabor liên quan đến các sóng cơ bản với tỷ lệ khoảng thời gian/chu kỳ trung bình không đổi. Đối với các môi trường phân lớp, như tìm thấy trong các bồn trầm tích, chúng tôi có thể phân biệt hai loại chuỗi chính: (1) chuỗi tiến triển, và (2) chuỗi tuần hoàn hoặc gần tuần hoàn. Loại thứ hai có mối quan tâm lớn trong việc khám phá hydrocarbon. Các chuỗi tiến triển không liên quan đến sự méo mó rõ rệt của tín hiệu địa chấn. Do đó, chúng tôi đã nghiên cứu sự lan truyền sóng trong các chuỗi tuần hoàn và, trước tiên, các mô hình đơn giản được hình thành từ hai thành phần (môi trường nhị phân). Các cấu trúc chu kỳ như vậy có một chu kỳ không gian. Chúng tôi trình bày các dấu hiệu tổng hợp được tính toán trong miền thời gian bằng cách sử dụng mô hình Goupillaud-Kunetz của sự lan truyền cho các seismogram tổng hợp một chiều (1-D). Ba trường hợp khác nhau xuất hiện cho sự tán xạ tín hiệu, tùy thuộc vào giá trị của tỷ lệ bước sóng của tín hiệu/chu kỳ không gian của môi trường. (1) Bước sóng lớn Môi trường hợp thành hoàn toàn trong suốt, nhưng có độ trễ pha. Nó hoạt động như một môi trường đồng nhất, với một “vận tốc hiệu quả” và một “trở kháng hiệu quả.” (2) Bước sóng ngắn Đối với bước sóng gần gấp đôi chu kỳ không gian của môi trường, môi trường hợp thành làm giảm đáng kể sự truyền, và hiện tượng siêu phản xạ xảy ra như một đối ứng. (3) Bước sóng trung gian Đối với các giá trị tần số trung gian, sự phân tán vận tốc theo tần số xuất hiện. Tất cả các hiện tượng này được nghiên cứu trong miền tần số, bằng cách thực hiện công thức phân tích của các hàm truyền của môi trường hợp thành cho sự truyền và phản xạ. Những hiện tượng như vậy tương tự như các sóng Bloch trong mạng tinh thể như đã được nghiên cứu trong vật lý trạng thái rắn, với chỉ sự khác biệt về quy mô, và chúng tôi đã kiểm tra sự đồng nhất của chúng với các phép đo từ phòng thí nghiệm. Các mô hình này cung cấp cho chúng tôi cách dễ dàng để đưa vào việc sử dụng các vận tốc và trở kháng hiệu quả phụ thuộc vào tần số, tức là, phức tạp. Chúng sẽ hữu ích cho các phát triển tiếp theo của “giải điều phức hợp.” Các kết quả trên có thể được mở rộng cho các môi trường gần tuần hoàn được hình thành từ một phân bố ngẫu nhiên của các lớp đôi. Đối với sự truyền tín hiệu, các chuỗi gần tuần hoàn hoạt động như một bộ lọc cắt cao với độ trễ thời gian khả thi, sự phân tán vận tốc, và loại luật “Q không đổi” cho sự suy giảm. Đối với sự phản xạ tín hiệu, chúng hoạt động như một bộ lọc cắt thấp, với khả năng siêu phản xạ. Những nghiên cứu này có thể được mở rộng cho các mô hình nhị phân ba chiều (3-D) (hạt và lỗ trong một hồ chứa xốp), phù hợp với các đặc tính âm học được biết đến của các hồ chứa khí (lý thuyết về các điểm sáng). Chúng tôi trình bày một số ứng dụng cho dữ liệu giếng thực.
Con người thường chia sẻ ý kiến và thông tin với các mối quan hệ xã hội của họ, và lời truyền miệng có tác động quan trọng đến hành vi tiêu dùng. Nhưng điều gì thúc đẩy giao tiếp giữa các cá nhân và tại sao mọi người lại nói về những điều nhất định mà không phải những điều khác? Bài viết này lập luận rằng lời truyền miệng là động lực và phục vụ năm chức năng chính (tức là, quản lý ấn tượng, điều tiết cảm xúc, thu thập thông tin, gắn kết xã hội, và thuyết phục). Quan trọng hơn, tôi cho rằng những động lực này chủ yếu phục vụ cho bản thân (thay vì người khác) và thúc đẩy nội dung mà mọi người nói đến ngay cả khi họ không nhận thức được điều đó. Hơn nữa, những động lực này đưa ra các dự đoán về loại tin tức và thông tin mà mọi người có khả năng thảo luận cao nhất. Bài viết này xem xét năm chức năng được đề xuất cũng như cách các yếu tố bối cảnh (tức là, khán giả và kênh giao tiếp) có thể điều chỉnh chức năng nào đóng vai trò lớn hơn. Tổng thể, bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố tâm lý hình thành lời truyền miệng và phác thảo những câu hỏi bổ sung cần nghiên cứu thêm.
Mặc dù đã có sự quản lý tích cực trong giai đoạn thai kỳ, hội chứng truyền máu cặp đôi (TTTS) vẫn là một căn bệnh nghiêm trọng với nguy cơ cao về tỷ lệ tử vong và bệnh lý ở trẻ sơ sinh. TTTS ban đầu do sự chênh lệch dòng máu từ cặp đôi cho sang cặp đôi nhận. Tuy nhiên, cơ chế sinh bệnh vẫn chưa rõ ràng, mặc dù những rối loạn tim mạch và sự điều hòa thể tích máu thai nhi và bài tiết nước tiểu dường như là trung tâm trong hội chứng này. Trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng hệ thống renin-angiotensin (RAS) đã được điều chỉnh tăng ở cặp đôi cho do hậu quả của tình trạng thiếu thể tích máu, và điều chỉnh giảm ở các cặp đôi nhận. Đây là bằng chứng đầu tiên về sự liên quan của RAS trong TTTS. Chúng tôi giả thuyết rằng RAS đóng vai trò chính trong cơ chế sinh bệnh của TTTS. Ở cặp đôi cho, việc điều chỉnh tăng RAS làm trầm trọng thêm tình trạng thiểu ối và có thể làm tăng kháng lực động mạch, điều này có thể góp phần vào chức năng nhau thai bị suy giảm dẫn đến tình trạng hạn chế tăng trưởng trong tử cung. Ở cặp đôi nhận, việc kích hoạt RAS nghịch lý, do sự chuyển giao các yếu tố hiệu quả như angiotensin II qua các lỗ shunt nhau thai, có thể giải thích cho các rối loạn mạch máu thai nhi và bệnh cơ tim. Theo giả thuyết của chúng tôi, TTTS sẽ giống như mô hình huyết áp cao cổ điển được gọi là ‘2 thận-1 kẹp’ với một cặp đôi cho, tương đương với thận bị kẹp, làm nhiễm độc cặp đôi còn lại, tương đương với thận bình thường.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 8